Tôi Tớ Chúa
Từ “Servant” tiếng Hêb-rơ èbèd và Hy-lạp doulos, trong Kinh Thánh có nghĩa là nô lệ (slaver), tức là người không có “quyền” làm người, hay là “quyền công dân.” Tương tự, Thánh Kinh muốn nói là chúng ta là những người tôi tớ của Ngài, tức là những người không có quyền làm người (tức là người đã mất quyền làm con ông Trời, vì khi A-dam phạm tội con người đã mất vị thế của 1 người xứng đáng của 1 con người – con Trời (Math. 6:24; 10:24, 24:45; Gal. 4:21tt). Sau này, Tân Ước từ “Christian” (Cứu Chúa Nhân, Krit-tô Hữu), cũng là “Servant” của Chúa, của Đấng Christ; tức là, chúng ta là tôi tớ của Chúa, chúng ta có Chúa là chủ, mà đã là tôi tớ, chúng ta không còn quyền sở hữu chính mình (I Cor. 4:1; Phil. 1:1). Qua lịch sử, “Servant of the Lord” (Tôi Tớ Chúa), cụm từ nói lên những ai dâng trọn đời phục vụ Đức Chúa Trời (Phục 34:5; Luc.1:38). Từ này khởi xướng từ thời Môi-se. Chính Đức Chúa Trời đã gọi “Môi-se, tôi tớ Ta” (Phục 35:5), rồi tiếp nối tinh thần đó trong Cựu Ước đã được dùng cho các tiên tri, thầy tế, những ai phục vụ Ngài. Tiên tri Ê-sai cũng đã nhấn mạnh chức năng của “tôi tớ” của Chúa, vừa thấp hèn vừa cao trọng; vừa tồi tệ vừa cao sang và ngay cả Đấng Mét-sia cũng được gọi “tôi tớ” (Esai 42:1; 49:1-6; 50:4-9; 52:13-53;12).