Tôn Vinh Chúa, Ca Ngợi Chúa
Cụm từ này dùng tôn vinh ca ngợi Chúa trong mỗi lúc thờ phượng Chúa trong HT hay bất cứ nơi nào. Nguyên gốc của từ này là từ בָּרֲכ֣וּ (bà-răkù) “bless” (Phước/ phước hạnh thay). Đầu tiên được dùng, là lúc ĐCT sáng tạo xong vạn vật và con người, KT chép rồi Ngài ban phước cho chúng, Sáng Thế 1: 22,” Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều.” Sau đó, ĐCT tiếp tục “ban phước”… Như ở đoạn 12:1-3, Chúa hứa ban phước cho Ab-ram và dòng dõi, khi ông vâng lời Chúa ra đi. Từ “ba-răk” được dịch ra tiếng Anh: bless, praise, exalt. Riêng tiếng Việt ra nhiều chữ khác nhau: tôn vinh, ngợi khen, chúc tụng, chúc tôn, hát khen, ca khen, ca tụng… Tuy nhiên, ý chính vẫn là, con người “tôn vinh chúc tụng” danh Chúa. Nhưng trong văn hoá của người Việt, con người “không có phép chúc phước” danh Chúa. Chúng ta chỉ có nhận hay cầu phước.
Từ này được vua Đa-vit dùng nhiều lần trong sách Thi Thiên, và có hơn 330 lần trong toàn KT. Đối với người Do Thái, chỉ có thái độ Ca Tụng Tôn Vinh Chúa là bày tỏ được sự kính trọng, khiêm nhu trước Đấng tối cao, và họ luôn luôn ca tụng Đấng Adonai (Gia-vê) của họ. Điều này đã trở nên một thói quen, một văn hoá độc đáo chỉ thờ phượng tôn vinh Đấng có một không hai. Đấng đó là Thiên Chúa yêu thương họ, và giải cứu/ phóng của riêng họ. .
Trong Cứu Chúa Giáo ca tụng Chúa là mấu chốt cơ bản hằng ngày trong việc sống đạo, hành đạo và nhận phước hạnh. Ca ngợi là yếu tố đầu tiên trong sự thờ phượng và cầu nguyện. Phần ca ngợi Chúa trở nên quan trọng từ thời trung cổ, Âu Châu, các Giáo Hội Chính Thống, Cải Chánh, Cải Cách và Công Giáo đã khuyến khích các ca sĩ, nhạc sĩ, thầy đờn sáng tác và phổ biến những khúc ca (carols), Thánh Ca (hyms), Thánh Thi (psalm) để tôn vinh Chúa, và có rất nhiều bài mãi đến nay vẫn còn giá trị trong các con dân Chúa. .
Qua đến giữa thế kỷ 20th, các Hội Thánh đã dành phần đầu thờ phượng bằng sự ca ngợi tôn vinh Chúa qua các bài thánh ca mới (praise songs) trong tất cả các buổi lễ. Ý thức này có từ thời Vua Đa-vít, ông luôn luôn khuyến khích dân sự Chúa, “hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va…” (Thi 96:1; 98; 149:1). Nói cách khác, là con dân Chúa, chúng ta hãy dụng tâm sáng tác thêm những bài ca mới mà hát ca ngợi Chúa. Ngày nay, chúng ta đã và đang có hằng trăm “bài ca mới” thật khích lệ phấn chấn lòng người, nhất là các bạn trẻ như có sức sống và tâm hồn mới mỗi khi cất tiếng hát ca tụng Chúa. .
Tóm lại, sự tôn vinh Chúa là bổn phận của một người biết Chúa, cũng là mức đo của lòng yêu mến Chúa thế nào? Vua Đa-vít không những chính ông tôn vinh Chúa mà ông còn kêu gọi, “Hỡi hết thảy các dân mà Chúa đã dựng nên, sẽ đến thờ lạy trước mặt Chúa, và tôn vinh danh Chúa. Vì Chúa là rất lớn, làm những sự lạ lùng” (Thi 86:9-10). Có lúc ông kêu gọi, “Hỡi cả trái đất, hãy ca tụng Chúa…”.. “Hỡi các từng trời hãy ca tụng Chúa”.v.v… (Thi 148:1). .
Sứ Đồ Phao-lô cũng đã nhận xét rằng sẽ có một ngày trong thời kỳ sau rốt,
“ (tất cả) nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phi-lip 2:10-11). Xem thêm từ Halelujah. Blessing.