Form

Hình Thức

Từ form thuộc lãnh vực triết học Hy-lạp có từ thời của Plato (tiếng Hy-lạp Eidos, La-tin Forma) với ý thức về một bản chất, bản thể không thay đổi, sự sắp đặt trật tự của “tư tưởng” (idea) khác với “cái vật chất” (matter) không thể phân chia. Về sau, ngược lại, Aristotle cho là cả matterform mới là thật (substance) mới là bản thể. Còn Plato, chỉ có form mới gọi là hiện hữu độc lập với “vật chất.” Tlh. – Form Criticism (Phê Bình Hình Thức). Xuất phát từ các học giả Thánh Kinh, người Đức, ban đầu nghiên cứu Thánh Kinh qua cấu trúc hình thành thơ phú, nghệ thuật, ẩn dụ, huyền thoại,.. dần dà liên hệ đến sự lưu truyền từ thời tiền sử (prehistory) về truyền khẩu hay văn tự (gọi là sitz im leben – setting in life). Sự nghiên cứu phê bình hình thức đã là một cuộc cách mạng trong việc học biết chiều rộng, liên hệ bên ngoài (khác với chiều sâu nội dung – contents ) đến những gì với Thánh Kinh như tác giả, thời gian, sự ghi chép. Tạo lên nhiều phê bình rất có giá trị cho nền học hỏi Thánh Kinh từ thế kỷ 19th đến nay. (Tiếng Đức: Formgeschichtliche). – Forma-lism (Chủ Thuyết Theo Hình Thức). Là một chủ thuyết dựa trên bề ngoài hình thức thờ phượng theo thủ tục, nghi lễ là quan trọng hơn. Điều này đi ngược lại sự chú trọng phần bên trong tâm linh. Nói rõ hơn, nó là một chủ thuyết dựa trên hình thức đạo đức chỉ qua hành động đạo đức thể hiện ra ngoài bởi các luật hình thức luân lí.

Loading

0 0 đánh giá
Chấm Điểm Mức Độ Chính Xác Từ Vựng Này
Theo dõi
Thông báo của
0 Góp Ý Từ Vựng
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả góp ý
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy góp ý từ vựng.x