Đức Tin, Niềm Tin
Nguyên từ tiếng Heb: הֶאֱמִ֖ין (he-emin) (Sáng 45:26) hay אַ֝אֲמִ֗ין (a-aman) (Gióp 9:16), dịch ra tiếng Hy-lạp pistis và La-tin fides (believe or trust). Có nghĩa là tin, tin tưởng, tôi tin. Từ faith có động từ là believe. Trong KT có hơn 108 lần dùng đến. Tương tự với từ trên có từ trust (tin tưởng, giao phó, uỷ thác): בָּ֣טַח (bà·ṭàh) (E-sai 37: 10). Từ này có khoảng 120 lần. Trong Tiếng Việt, có thể dịch là đức tin, niềm tin (dt), hay tin tưởng, uỷ thác (đt) (believe/trust). .
Ý niệm “tin” được mô tả khi bà Ê-va “nghe lời” con rắn cám dỗ, ăn trái cây cấm. Và sau đó Nô-ê “vâng lời” ĐCT đóng tàu ở trên núi, trong 120 năm, rồi Ab-ram “vâng lời” Chúa mà rời bỏ quê hương mình. Nhưng từ “trust” or “believe/faith” được dùng đầu tiên, mãi đến chương 15 của sách Sáng Thế, khi ông Ab-ram tin vào ĐCT, “Áp-ram tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng-thế Ký 15:6). .
Từ tin/ đức tin là một từ then chốt ấn chứng cho cuộc sống của con dân Chúa với Chúa. Do đó, mà tác giả sách Hêb-rơ đã định nghĩa đức tin và mô tả những anh hùng đức tin, và bởi họ đức tin đã tạo được một lịch sử. Có thể nói đức tin đã tạo được một lịch sử của dân Do Thái. Tin vào ĐCT là Chúa, là ĐCT của Tổ Phụ riêng họ và là Đấng Cứu Rỗi. .
Vậy, ý nghĩa chính của đức tin là gì? Xin xem định nghĩa của tác giả sách Hêb-rơ. “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.” (Hêb-rơ 11;1). Qua câu này, tác giả khẳng định, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trong mong… tức là điều gì mình tin nời Chúa, thì điều đó là chắc chắn. Chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời, được Chúa ban cho. Đức tin vào điều cao nhất, đó là sự Tha Tội, sự xưng Công Bình trong hiện tại, và sự Cứu Rỗi trong ngày cuối cùng… .
Trong niềm tin Cứu Chúa Giáo (Christianity) từ ngữ này là sự tin tưởng, đến nỗi giao thác trọn đời sống mình vào Chúa, và luôn luôn đi với vâng phục Lời Chúa như đã khải thị trong Thánh Kinh về Jesus Christ. Vì chính Ngài là then chốt của Sự Cứu Rỗi và Sự Sống Vĩnh Cữu cho những ai theo Chúa (Eph. 2:8-9; Giăng 6:40; 3:16). Do đó, đức tin đã ảnh hưởng rất nhiều khía cạnh trong cuộc đời của một tín hữu từ trí thức, tâm thức và ý chí… (Xem Lu-ca 10:27).
Trong Thánh Kinh nền tảng đức tin (faith) được hiểu qua 2 chiều kích: (1) Đức tin để được cứu rỗi (Phao-lô, Giăng), là đức tin chỉ cần một lần thật tâm với Chúa, để nhận sự tái sinh. Và, (2) đức tin để sống đạo (Gia-cơ). Nhờ đức tin này, mọi sự việc xẫy ra, qua đức tin, sẽ làm vững lòng tin. Tức là đức tin them đức tin. Vì thế, qua lịch sử giáo hội, con dân Chúa đã diễn giải như sau: Đối với Phao-lô – “Chỉ có đức tin” là đủ, “người công bình sống bởi đức tin (Rom. 1:17tt). Nhưng đối với Gia-cơ “đức tin cần phải có việc làm kèm theo” (Gia-cơ 2:14-24). Hai ý thức đối nghịch này đã làm dậy sóng trong các nhà giải kinh từ thế kỷ 16th tới nay. Và đó cũng là một điểm then chốt để nói đến sự khác biệt giữa 2 giáo hội Công Giáo La-mã và Tin Lành, luôn cả trong tư tưởng của các nhà thiên đạo. Như thế, đức tin là sự quyết tâm theo Chúa và cũng là món quà siêu nhiên của Chúa ban tặng để con dân Chúa dám sống đạo với Chúa (II Cor. 4:6; Giăng 6:44; I Giăng 2:20, 27), và Chúa là chủ đích của tất cả các Niềm Tin vào sự Cứu Rỗi và Phước Hạnh (Eph. 2:8; Phil. 1:29). Tlh. – Faithfulness (Sự Trung Tín). Là đặc tính chắc chắn vững vàng bền bỉ của một người tin vào Chúa. Trong Kinh Cựu Ước, từ tiếng Heb-rơ aman, trong bản 70 (LXX) hơn 67 lần dịch qua tiếng Hy-lạp pistos bao gồm các tính chất trên “firmness” (chắc chắn), “fixity” (bền chặc) và “stability” (vững chắc). Điều này nói lên người tin Chúa phải có sự tin chắc chắn vào Đức Chúa Trời và những lời hứa của Ngài thì mới thực sự hưởng được phước hạnh trọn vẹn (CƯ: Phục 7:9; Thi 25:10; 40; 85; 115; 136; Ô-sê 2:19; Ê-sai 49:7 – TƯ: I Cor. 1:9; Heb. 11:1-2; I Tes. 5:23; I Phi. 4:19; Eph. 6:21; Col. 4:7; Gal. 5:22).