Triết Lý Vô Thần
Là niềm tin tuyệt đối vào ý thức vô thần, tức là không tin có thần thánh, Chúa, Đấng Tạo Hoá trong cõi sinh động trên đất và trên không trung. Tất cả là con người thực thể, hiện thực, và quản lý theo trí khôn của con người đã phát triển qua các thời đại. Từ này do tiếng Hy-lạp atheos (vô thần, không cần Thiên Chúa hay không có thần thánh,). Từ này có dùng chỉ có một lần trong Tân Ước ở sách Ê-phê-sô 2:12, để nói đến không có một Đức Chúa Trời chân thật (không có nghĩa là khước từ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời). Từ này cũng không tìm thấy trong Bản Kinh LXX và Cải Biên Kinh. Trong ý thức của người Hy-lạp với từ atheism (vô thần) có 3 nghĩa như sau: (1) không tin tưởng, hay không có thần, (2) không có sự trợ giúp của Đấng Siêu Hình nào cả, và (3) không tin vào một thần thánh nào cả. Trải qua hơn 20 thế kỷ, sự tranh luận giữa hữu thần và vô thần cứ liên tục tiếp diễn.
Khoảng từ cuối thế kỷ 20, những người theo Chủ Thuyết Cộng Sản (Communism) đã chủ trương vô thần và đã kích các tôn giáo cách mạnh mẽ, tìm cách ngăn trở con người thờ kính Đức Chúa Trời hay bất cứ thần thánh nào trong các nhà thờ hay chùa miếu. Trong thế giới tư tưởng, các triết gia, học giả tranh luận với những ý thức sau: (1) không hẳn không có sự hiện hữu của một Đấng Cao Cả, (2) xác định ý thức có thần, nhưng không xác định phải là một tổng lực (force) hay chuẩn lực (principle), hay tiên lực (first cause), (3) tạo những đạo lí vô thần, (4) tạo một cuộc sống hiện thực, bất cần một trợ giúp nào của thần thánh. Tóm lại, ý thức vô thần không thể nào phủ nhận những thực hữu trong thế giới loài người như: (1) sự yếu đuối, giới hạn của con người, (2) phản lại những kinh nghiệm thực về sự trợ giúp của Đấng Thiêng Liêng, (3) không thể khước từ một thế giới thật tự hữu chủ, (4) không thể khước từ sự hiện hữu của tâm thức tín ngưỡng, và tôn thờ có sự hiện hữu của một Đấng Cao Cả trên hết mọi loài trong cõi nhân gian.