Cha đẻ của tín lý và nền thần học của Giáo Hội Trưởng Lão (Presbyterian). Calvin đã sinh ra ở Noyon, Picardie (Pháp). Cha của ông là Giám Mục ở Noyon. Nhờ đó từ nhỏ ông đã được giáo dục rất tốt, định sẽ đưa về Đại Học Paris học về Mục Vụ Thầy Tế. Nhưng vì cha ông có xích mích với các lãnh đạo, cuối cùng đưa ông đi học trường luật ở Orleans. Sau đó, ông ra luật sư ở Bourges và làm việc ở đây, là một xứ Cải Chánh (Protestant). Sau khi cha qua đời, ông dọn về Paris. Nơi đây ông tham gia các phong trào Cải Chánh, kết quả ông phải rời khỏi Paris đến các quốc gia lân cận như Ý, Thuỵ Sĩ. Khi ở Basel, Thuỵ Sĩ, ông bắt đầu viết sách, quyển đầu tiên của ông là Institutes of The Christian Religion (1536). Sau đó, ông tiếp tục bị khó khăn phải đi nhiều nơi trên nước Ý và Pháp. Ông đã được một người bạn giúp đỡ (W. Farel) cư ngụ, để cùng cổ súy phong trào cải chánh ở Pháp và bị chống đối mãnh liệt. Năm 1538, ông được giới thiệu làm mục sư ở Hội Thánh Cải Chánh tị nạn người Pháp ở Strasbourg (1538 – 1541). Cuối cùng, năm 1541 ông lui về ở Geneva dành nhiều thì giờ viết sách và ở đó cho đến khi qua đời.
Có thể nói, trong các tư tưởng gia trong thiên đạo học cải chánh, ông là người đã ảnh hưởng nhiều nhất, và sâu sắc nhất ngang hàng với các tiền nhân St. Ausgustine, St. Thomas Aquinas cho đến ngày nay. Sách của ông để lại rất nhiều bao gồm các sách thiên đạo, bộ giải kinh lớn nhiều tập (Calvin’s Commentaries), hiện vẫn còn lưu dụng, làm sách giáo khoa trong các đại chủng viện thiên đạo học tin lành nói chung. Sở dĩ tư tưởng của Calvin vẫn đứng vững vì khuynh hướng bảo thủ, đặt cơ sở vững chắc trên ĐCT Ba Ngôi, Thánh Kinh, sự cứu rỗi chắc chắn qua Chúa Cứu Thế Jesus. Xem thêm các mục sau… Calvinism (Tư Tưởng Giáo Lí). Tư Tưởng của Thiên Đạo Gia John Calvin qua sách vở rất là phong phú. Ngoài những bài khảo cứu giá trị, bộ sách giải kinh nổi tiếng khổng lồ gồm 22 quyển (Calvin’s Commentaries), và nhiều sách thiên đạo học và đạo lý Thánh Kinh. Tư tưởng thiên đạo nổi bật bao gồm trong 5 chữ cái TULIP, bắt đầu bằng những chữ cái trong Anh Ngữ, tức là: (1) hoàn toàn tuyệt vọng của con người (Total depravity). (2) Tình yêu vô điều kiện của Đức Chúa Trời (Unconditional love). (3) Đền tội có giới hạn (Limited Atonement). (4) Ân điển không thể khước từ/ định mệnh (Irresistible grace/ predestination), và (5) sự tôn trọng chức vụ thánh (Perseverance of the Saint). Một trong 5 điều trên tạo tranh luận nhiều nhất, giữa ông và giáo thuyết Arminianism, mà cũng là trung tâm tín lý của ông là giáo lý định mệnh đôi (double predestination).
Ý thức tín lý toàn diện và niềm tin của ông có thể tóm lược như sau: về Thánh Kinh (Sola Scriptura), vô ngộ, khải thị duy nhất, đáng tin hoàn toàn và đầy thẩm quyền. Về Đức Chúa Trời (Soli deo gloria): Đấng Sáng Tạo, Ba Ngôi Nhất Thể, đồng đẳng. Đức Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời và là Người hoàn toàn. Đức Thánh Linh là Ngôi Ba đang bảo tồn tạo vật, và đang sống với quyền năng tái tạo và dẫn dắt tín hữu. Về Loài Người, chỉ có đức tin (Sola fide), được sinh “trong hình ảnh Đức Chúa Trời”(image of God) với kiến thức và công chính thật. Có ý chí tự do muốn chọn hay không chọn lời phán (lệnh) của Đức Chúa Trời. Nhưng nay, bị mất hoàn toàn đặc ân mà Đức Chúa Trời ban cho, loài người hoàn toàn tuyệt vọng, không tự cứu mình được. Về Hội Thánh (body of Christ), dân Chúa phải sống trong lời giao ước Chúa ban cho Hội Thánh, là thân thể Ngài, trong Nước Chúa, cùng xây dựng, phát triển. Hội Thánh phải vâng giữ lời Chúa trong Lễ Tiệc Thánh và Lễ Báp-tem. Con Dân Chúa phải tôn trọng thứ tự tổ chức của giáo hội hữu hình, và tôn trọng các chức vụ chăn bầy, lãnh đạo Chúa giao.
Nói chung, Calvin được tôn xưng là “vua giải kinh”, “nhà luận giải vĩ đại của thế kỷ 16th”, “Người sáng tạo môn phân tích luận giải chân thật” (true extensis), cũng là người đặt niềm tín lý vững vàng cho toàn hội thánh, và ảnh hưởng tư tưởng trên nhiều học giả nhất ngày nay. Calvinist (Những Cal-vin Gia, Người Theo Giáo Lý Calvin). Nói đến Calvinist(s) là nói đến rừng người ảnh hưởng tư tưởng của Calvin đa điện và phức tạp. Bao gồm những người tin theo, phổ biến, ảnh hưởng niềm tin và giáo lí của John Calvin từ thế kỷ 16th, hiển hiện trên những bản Tuyên Xưng Đức Tin Heidelberg Catechism (1563), Canon of Synod of Dort (1618), và Westminster Confession and Catechisms (1648), trong Church History ( Lịch Sử Cứu Chúa Giáo) qua các thiên đạo gia Abraham Kuyper và Herma Bavinck ở Tân Tây Lan, Auguste Lecerf ở Pháp, A. A. Hodge, Charles Hodge, B. B Warfield ở Mỹ, và sau tiếp trong thế kỷ 20th John Murray, J. Gresham Machen, và Cornelius Van Til đến ngày nay; đặc biệt, là trong các đại chủng viện thiên đạo (theological seminary) khắp các nơi trên thế giới… Calvinistic Methodism (Phong Trào Giám Lý Calvin). Phong trào phục hưng ở Giáo Hội Trưởng Lão Anh, dẫn đầu từ Wales do Griffith Jones (1684 – 1761), Howell Harris, và Daniel Rowlands, tiếp tục ảnh hưởng đậm đến thế kỷ 18th vào trong Giáo Hội Giám Lý trong cơn phục hưng ở Anh, thừa nhận và công xưng niềm tin qua bản cơ bản tín lý Westminster Confession (Reformed). Kết quả đã tạo được tinh thần truyền giáo, giáo dục, làm xã hội, và sinh hoạt chính trị với ảnh hưởng tư tưởng niềm tin của thiên đạo gia Calvin.