Yahveh

(אֶֽהְיֶ֖ה (‘eh-yeh) Đức Gia-vê, // Giê-hô-va

Là danh xưng của Đức Chúa Trời khi Môi-se đến gần bụi gai cháy không tàn (Xuất 3:14). Đức Chúa Trời bảo Môi-se đi về giải phóng dân Ngài là dân Hêb-rơ ra khỏi đất Ê-díp-tô (Ai-cập) khoảng 1600 BC. Trước khi nhận lời ra đi, lúc đến gặp Chúa ở bụi gai cháy không tàn, Môi-se hỏi tên Ngài là gì? Đức Chúa Trời đáp: “יהוה -YHWH” (Yeh-vahTa Là, hay Ta Là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu) (Xuất 3:14). (Có lẽ phát âm là Ye-va or Yaweh). Từ này gồm 4 chữ phụ âm YHWH, Người Anh phiên âm là Jehovah (Giê-hô-va) từ thế kỷ thứ 15th và dùng dịch quyển Kinh Thánh King James 1611. Thực sự, các học giả bấy giờ không biết đọc thế nào cho đúng. Họ dùng các nguyên âm của từ “Adonai” (Chúa) mà dân Hêb-rơ thường đọc khi gặp phải tên Chúa viết “אֱלֹהִ֑ים – Elohim.” Khi lắp vào các phụ âm trên thì đọc là “Jehovah.” Từ đó, chữ này lưu dùng trong nhiều bản dịch sau này cho đến nay vẫn còn dùng trong giới người Anh, Âu Châu và Hoa Kỳ. Gần đây, khoảng giữa thế kỷ thứ 20th, các học giả đọc lại cho hiệp với Người Do Thái là: “Yahveh” (Gia-vê) trong các bản dịch mới của Người Hoa Kỳ. Các học giả của bản dịch Revised Standard Version, RSV (1973), New Interna-tional Version, NIV (1985) dịch lại ra là LORD (4 chữ hoa). Riêng Người Việt chúng ta, các bản dịch của Người Công Giáo dịch là “Ta Là” (Ta là Đấng Ta Là) hoặc “Ta có sao Ta có vậy” và gọi là “Ya-vê Thiên Chúa” (LM. Ng. T. Thuấn, 1975), còn Bản Kinh Phụng Vụ (1998) dịch là, “Ta là Đấng Hiện Hữu” và gọi là “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa.” Còn bản Thánh Kinh của Người Tin Lành Việt Nam dịch là “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu” (1926, BTT) và phiên âm là Đức Giê-hô-va, khi gọi chung là Giê-hô-va Đức Chúa Trời giống với người Anh. Vài bản dịch VN mới đây sau năm 2000 dịch là CHÚA (lên hoa 4 chữ). Riêng Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2011 vẫn giữ theo cách phiên âm Giê-hô-va như cũ. Đặc biệt, bản dịch (2017) MSTS. Nguyễn Cảnh, dịch 4 chữ YHVH là “TA LÀ ĐẤNG GIÊ-VA”, gọi là “Giê-va Đức Chúa Trời.” Nói rõ hơn, danh tôn xưng Đức Chúa Trời, Thiên Chúa “YHWH” là từ chung xưa nay, với danh gọi: Jehovah – Yahweh – Gia-vê – CHÚA – Giê-va là tên gọi chính Ngài. Cho dù gọi như thế nào, ý nghĩa của từ “YHWH” không thể mất, “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu,” “Ta Là,” “Đấng Tự Hữu Vĩnh Hằng” và trong bản Anh ngữ, “I AM THAT I AM” (KJV), “I AM WHO I AM” (RSV, NIV and others). Tuy nhiên, từ “Gia-vê” ngày nay được đa số chấp nhận hơn và tránh được nhiều lầm lẫn.  Nhưng khi đổi sang Tiếng Việt, không thể gọi trổng là Gia-vê Đức Chúa Trời (không có mạo từ ở đầu tên) mà phải gọi là Đức Gia-vê, hay Đức Gia-vê Chúa Trời (# Thiên Chúa), thì mới đúng theo  văn phong Việt Nam. Xem thêm  God & The Name of God.

Loading

0 0 đánh giá
Chấm Điểm Mức Độ Chính Xác Từ Vựng Này
Theo dõi
Thông báo của
0 Góp Ý Từ Vựng
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả góp ý
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy góp ý từ vựng.x