Vô Ngộ, Không Thể Sai Lầm
Do từ tiếng La-tin in (not), fallere (giả dối, lường gạt, to deceive). Nói đến hành động và ý chí không sai, không lừa gạt, không dối gian. Trong giới giáo hội, từ infallibity được dùng trước từ lâu do các câu Kinh Thánh: II Timothy 3:16, II Phê-rơ 1: 21, Ma-thi-ơ 5: 17-19; Khải 22: 18-19. Khi dùng từ này, thì bao hàm luôn từ kia; và ngược lại, khi dùng từ kia “inerrancy” thì chỉ nói có một phần. Nói về sự kiện lịch sử, đều là những sự kiện có thật, dù có thể người ta không tin ở buổi đầu. Như ở sách Công Vụ 1:3-11; nói đến sự sống lại của Chúa Cứu Thế Jesus là một sự kiện chân thật, không lừa dối, không sai, và đúng hoàn toàn. Đây là sự minh khải của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus là sự kiện, bằng chứng không thể sai, đó là sự thật. Qua đó liên hệ đến mục đích và nội dung. Chúa Jesus mang sự cứu rỗi chân thật. Do đó, việc nhập thể của Chúa Jesus đúng trong sự kiện mà còn đúng trong nội dung. Khởi đầu được sự thừa nhận trong những ai tin theo Ngài; tức là con dân Chúa (Krít-tô Nhân); dần dà, ý thức này được Giáo Hội Chính Thống Giáo (Hội Thành Chúa Thuần Túy Đầu Tiên) tin tưởng rằng Thánh Kinh không hề sai lầm bởi Đức Thánh Linh soi sáng hà hơi. GH Công Giáo La-mã tin vào Giáo Hoàng quyết định, Cò các GH Cải Chánh tin rằng do sự bảo hộ trọn vẹn của Đức Thánh Linh dẫn dắt qua lời Chúa sẽ không sai lầm. Điều này bao gồm sự soi sáng, chiếu sáng và cảm thúc (Illumination, Enligh-tenning, Inspiration). Ngoài tín lí trên Giáo Hội Công Giáo La-mã qua các thời gian đã có sự sửa sai, và thêm những tín lí khác nữa. Điều này cũng làm cho mất uy tín Giáo Hội càng hơn. Riêng Chính Thống và Tin Lành nói chung, từ “Infallibity” không còn dùng đến để ám chỉ vào sự “không lỗi” của Thánh Kinh như từ inerrancy.