Thần học Học Hy Vọng
Hy vọng trở nên một nền thần học học vững chắc rõ ràng giữa thế kỷ 20th, khi thần học gia Jungen Moltmann (b. 1926 – ) người Đức , cho ra đời quyển “Theology of Hope” (1967) (Thần học Học Hy Vọng). Nội dung của sách đã nhấn mạnh Đức Chúa Trời hành động cho tương lai (eschatology). Vì vậy, tất cả những gì của thần học học có thể diễn giải qua chiều kích hy vọng từ trong quá trình truyền thống xưa đến hiện nay trong lịch sử nhân loại với ánh sáng lời hứa mở rộng tương lai. Nói rõ hơn, Moltmann, đã ảnh hưởng lớn qua sách của ông, khi đặt lại vấn đề diễn giải hy vọng qua “Trọng tâm thần học phục sinh”, khởi sự bằng lịch sử cứu rỗi qua lời hứa trong Thánh Kinh qua dân It-ra-ên, và qua Chúa Cứu Thế Jesus nhập thể ở hiện tại và tương lai khi Chúa trở lại. Sự Phục Sinh của Chúa Cứu Thế là đầu mối, là cơ bản niềm tin vào hy vọng cứu rỗi trong tương lai. Ngoài ra, thần học gia Wolfhard Pennenberg đã nhấn mạnh càng hơn trong tư tưởng và nền thần học hy vọng chắc chắn qua những sách nổi tiếng của ông những thập niên từ 60’s, 70’s, đến nay. “Revelation as History” (1968), “Jesus-God and Man” (1968) là bản đồ của tiến trình hy vọng. Cùng thời với ý thức trên Giáo Hội Công Giáo La-mã có thần học gia Johannes B. Metz, với quyển “Theology of the World” (1968), nói đến sứ mạng truyền giáo là đích hướng niềm tin Thánh Kinh tương lai; Giáo Hội Lutheran có thần học gia Carl Braaten, với quyển “The Future of God” (1969). Tóm lại, sự chú ý của thần học hy vọng là “Những Ngày Sau Rốt”; là thế giới trong thời kỳ Sau Rốt như Thánh Kinh đã ghi; là những sự cố biến chuyển trong hội thánh và thế sự trong những ngày sau rốt nhằm mục đích mang đến hy vọng cho những người tin nhận Chúa Cứu Thế. Xem thêm Eschotology.