Danh Dự, Vinh Dự
Tiếng Heb. ở gốc “kbd”: “kábèd”, Hyl. “timé”, Lat. honor: vinh dự, danh dự. Trong kinh Cựu Ước, vinh dự, danh dự lớn nhất, là con người tôn thờ (vinh danh) Đức Chúa Trời là Đấng làm chủ tất cả mọi sinh vật vì Ngài là Đấng Tạo Hoá (Thi. 96:6; Khai. 5:12-13). Điều kế là danh dự, vinh dự của cha mẹ (Xuất. 20:1-5), và kế đến là các chức vụ trong cộng-đồng.
Từ nguyên gốc của “kbd” (kábed), trong tiếng Hêb-rơ cũng có ý nghĩa là “nặng” (heavy), weighty (cân nặng), (từ này cũng có nghĩa là giàu có). Trong xã hội Do Thái người gọi là “nặng cân” (weighty), là người được tôn kính, quan trọng và vinh dự lắm. Còn tiếng Hy-lạp “timé” đi xa hơn bao gồm về giá trị tư tưởng, giá trị nội tại. Có người còn diễn là huỳnh tráng, oai nghi, đẹp đẽ, vinh hiển hay tôn kính. (Thi. 8-5; Sử. 16:27; Thi. 96-6; Exơ. 6:3; Rom. 2:10, Phục 26:19, Khải. 5:12; 7:12).