Triết Gia Hiện Sinh M. Heidegger, 1889 – 1976
Là một triết gia hiện sinh nổi bật trong lãnh vực khởi động giải kinh theo hướng mới. Ông sinh ở Baden, Đức. Thủa nhỏ theo học với Hesserl quyển sách đầu tiên của ông “Being and Time”, đã đề tặng Husserl 1927. Nhưng 6 năm sau, 1933 ông phản bác ý thức triết học của Husserl và lập nên một nền triết học mới. Đối với Heidegger, sự sống hằng ngày là một cái gì không thật. Sự hiện hữu phi hiện hữu – mỗi chúng ta bị quăng vào trong thế giới mà không sao tách rời. Mỗi chúng ta chỉ là một chi của đám đông, được dấu kín trong lớp vỏ của những biến động. Con người chỉ có biết là thật (genuine), khi mà tự biết ra khỏi sự tự lừa (self – knowledge away from self – betrayal). Ông phản bác sự cảm biết của cõi hữu vô (nothingness). Và chết không là mất trong đám đông mà là kết tụ vào cái cuối cùng.
Đối với ông, tóm lại, có 4 chủ hướng tư tưởng sau đây, dù ông không là một thần học gia, nhưng luôn luôn là người chủ hướng đến tôn giáo: (1) Có cái hữu hạn là sự chết, sự chết đưa đến sự hiện sinh chân thực. (2) Ông chỉ trích nặng nề về tôn giáo và tôn giáo đã không đưa chúng ta đến một sự hiểu biết chân thực. (3) Ông tấn công Cứu Chúa Giáo vì Cứu Chúa Giáo không đem đến sự giải cứu nhưng đem đến sự hủy phá văn hoá chân thật của con người. Tôn giáo là cứu cách nhưng không là thực hữu. (4) Heidegger đặt trọng tâm vào ngôn ngữ “Language is a house of being” (ngôn ngữ là căn nhà của hữu thể). Triết lý của ông đã ảnh hưởng đậm trên những thần học gia thuộc tân chính thống và đặc biệt là Bultman và Tillich trong chiều kích “giải kinh thuộc vào phạm trù sử tính” (grammatical – histrorical hermeneutics).